Bình giảng đoạn đầu bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm
Tuy sáng tác từ khá sớm, có những tác phẩm được dư luận chú ý, nhưng Hoàng Cầm được biết đến nhiều hơn cả từ sau khi cách mạng tháng tám thành công với những bài thơ mang hồn phách rất riêng của quê hương nhà thơ. Và nếu phải kể chỉ một bài thôi trong số ấy, chắc nhiều người sẽ không ngần ngại dẫn ra bài “Bên kia sông Đuống”…
Sông Đuống còn gọi là sông Thiên Đức, là một nhánh của sông Hồng nối với sông Thái Bình, chia tỉnh Bắc Ninh ra làm 2 phần hữu ngạn và tả ngạn. Khi thực dân Pháp chiếm Nam phần Bắc Ninh-nơi quê hương, gia đình tác giả sinh sống, ngay bên bờ sông Đuống thì ông đang công tác ở Việt Bắc.
Trong cảm xúc kì lạ của một đêm giữa tháng 4/1948, khi nghe tin giặc đánh phá quê hương mình, Hoàng Cầm rất xúc động và ngay đêm đó đã viết bài thơ “Bên kia sông Đuống”. Bài thơ đã thể hiện được khá sâu tâm tư của con người kháng chiến trong nỗi đau quê hương bị giặc dày xéo và ước vọng chiến đấu để giải phóng đất nước, bảo vệ quê hương. Trong đó có đoạn:
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
………
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu
Đây là một đoạn tiêu biểu và hay nhất trong bài thơ vì nó đã nói được một phần quan trọng cảm xúc của tác giả: bởi tự hào lắm về quê hương nên cũng đau xót lắm. Từ cảnh ngộ hiện tại của quê hương bị giặc chiếm, nhà thơ nhớ lại quê hương ngày xưa thuở thanh bình và càng như đau đớn, xót xa và sôi sục lòng căm hờn đối với quân cướp nước hơn. Nỗi đau ấy ta đã gặp ở đoạn trên trong cảm giác xót đau tựa hồ như nỗi đau mất một phần cơ thể, thịt da tác giả:
“Đứng bên này sông sao nhớ tiếc-Sao xót xa như rụng bàn tay”
Trở lại với đoạn chúng ta cần bình giảng, đó là phần chính của bài thơ được mở ra bằng 4 chữ nhắc lại nhan đề bthơ-những chữ được hạ xuống mạch thơ như một âm hình chủ đạo:
“Bên kia sông Đuống”
Nhà thơ đang ở phía bên này sông và hướng sang bên kia sông, nơi quê hương đang bị thực dân Pháp chiếm đóng. Bên kia sông Đuống là một vùng Kinh Bắc ngày xưa nổi tiếng là một vùng đất văn vật với nhiều di tích lịch sử, đền đài, miếu mạo và những truyền thuyết, huyền thoại, truyện cổ tích, tranh dân gian làng Hồ…và là quê hương của những làn điệu dân ca nổi tiếng rất đỗi quen thuộc với mỗi người Việt Nam. Và để giới thiệu về nơi chôn rau cắt rốn của mình, Hoàng Cầm đã mở đầu bằng 3 chữ thật trìu mến, thân thương: “Quê hương ta…”. Tác giả đã chọn những chi tiết thật chính xác để làm nổi bật sự phong phú của quê hương trên cả hai mặt: đời sống vật chất và đời sống tinh thần.
“Quê hương ta lúa nếp thơm nồng”
Nhắc đến “lúa nếp’, đối với người Việt Nam không chỉ gợi nghĩ đến lúa mà còn là sự khơi gợi chí tưởng tượng con người với phong cảnh miền quê, những cánh đồng lúa chín, hương lúa chín và đặc biệt là mùi hương rất riêng của loại lúa ấy. Nỗi đắm say và tình yêu thương của nhà thơ thể hiện rõ trong 2 từ “thơm nồng”: đó là mùi thơm của cây lúa, của hạt gạo chứa đựng sức sống ở bên trong. Định nghĩa từ “nồng” đi sau từ “thơm” đã đóng góp rất nhiều cho việc tạo cảm giác trù phú, ấm áp cho một miền quê vốn no ấm khi thanh bình.
“Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong-Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”
“Tranh Đông Hồ” hay tranh làng Hồ là những btranh được làm ra từ những nghệ nhân từ miền đất Bắc Ninh. Tranh có rất nhiều loại và cũng thể hiện nhiều đề tài đa dạng khác nhau. Nhưng quen thuộc nhất vẫn là những bức tranh lợn, gà…Những tác phẩm này rất được ưa chuộng vì chúng nói lên ước nguyện về một cuộc sống no đủ của nhân dân. Chúng được in tay và vẽ màu lên những tờ giấy có quét thêm bột vỏ điệp. Và vì thế, “tranh Đông Hồ” đối với nhà thơ là một niềm tự hào về truyền thống quê hương. Những nét vẽ tươi sáng, trong trẻo như tâm hồn của người dân nơi đây. Và nhà thơ còn thấy “sáng bừng” trên giấy điệp kia không phải là một màu cụ thể mà là “màu dân tộc”-màu sắc của tâm hồn con người. Từ “sáng bừng” được tác giả sử dụng thật đặc sắc vì nó còn nói lên sự sáng bừng của kỉ niệm khi nhớ lại. Với Hoàng Cầm, Kinh Bắc là như thế, đó là một nơi mà sự sống bao gồm và nhất thiết phải bao gồm hồn quê trong văn hoá dân gian.
Tiếp theo, bước ngoặt của cxúc thơ được đánh dấu bởi môt câu thơ mạnh mẽ, đột ngột và quyết liệt của tác giả:
“Quê hương ta từ ngày khủng khiếp”
Cũng với 3 chữ “quê hương ta” như ở đoạn trên, thay cho vị thơm nồng của lúa nếp hay nét tươi trong của tranh làng Hồ, quê hương giờ chỉ còn hiện ra những ấn tượng về sự hung tàn, khủng khiếp. Nhà thơ đã đặt tên cho thời điểm giặc đến quê hương mình là “ngày khủng khiếp” và h/ảnh tiêu biểu cho ngày đó là “ngùn ngụt lửa hung tàn”. Chỉ với mấy từ đó thôi cũng đủ làm hiện lên những nét hiện thực hết sức sinh động: Thực dân Pháp đã thực hiện dã tâm tam quang “đốt sạch, phá sạch, giết sạch” của chúng.
Và hơn thế nữa, những từ này còn hàm chứa lòng căm giận của nhà thơ đối với hành động cướp nước bạo tàn của giặc. Nó tuy không trực tiếp nói về hành động bắn giết, đốt phá của giặc nhưng từ “kéo lên ngùn ngụt” lại đã bao hàm đầy đủ hết thảy. Nó tạo cảm giác thật mạnh mẽ và ấn tượng về sự bạo tàn nói trên. Hậu quả của ngọn lửa hung tàn đó là:
“Ruộng ta khô – nhà ta cháy”
Đó là những gì ta vẫn thường gặp trong chiến tranh. Nhưng giữa những hình ảnh bình thường, quen thuộc ấy, Hoàng Cầm đã tìm ra được một nét riêng khi bộc lộ nỗi căm giận của mình:
“Chó ngộ một đàn-Lưỡi dài lê sắc máu-Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang”
Hình ảnh đàn chó điên dại, hung hãn, độc địa thật khủng khiếp, gây chết chóc khiến cho “kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang”, diễn tả thật dữ dội và sắc sảo hình ảnh bọn cướp nước. Tgiả đã không viết: “tận cùng” mà là “kiệt cùng” để nó hoà vào những từ “khô”, “cháy”…được viết trước đó. Chúng đã giúp tác giả bộc lộ rõ hình ảnh quê hương hoang tàn trong sự ám ảnh đầy sắc lửa và máu đỏ. Cảm giác tan tác, chia lìa không chỉ được hiện ra trong ý nghĩa mà còn trong cả nhịp điệu câu thơ. Dường như những câu thơ bị ngắt ra, gãy ra, khô khốc và không còn nguyên vẹn nữa.
Và một lần nữa, nỗi đau về một quê hương bị tàn phá của Hoàng Cầm cũng phải được thấm thía vào văn hoá, vào những bức tranh của làng Hồ. Một quê hương tan hoang dưới bóng giặc không chỉ hiện ra ở nhà cửa, ngõ xóm mà còn ở những bức tranh bị xé đôi, tan nát trong sự chia lìa của đàn lợn hay đám cưới chuột:
“Mẹ con đàn lợn âm dương-
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu”
“Mẹ con đàn lợn” mang những xoáy tròn âm dương tượng trưng cho sự hài hoà, thịnh vượng của đời sống, và “đám cưới chuột” là 2 bức tranh nổi tiếng trong nghệ thuật tranh dân gian làng Hồ. Chiến tranh xảy ra, cùng với sự tan tác của con người, những bức tranh cũng tan tác. Đây là một tứ thơ rất sáng tạo vì những hình ảnh giđình đám cưới “tưng bừng, rộn rã” như vậy không chỉ là hình ảnh trong tranh mà nó chính là sinh hoạt trong đời sống con người. Cuộc sống ấy đang êm ấm, thanh bình như một dòng chảy tự nhiên, bỗng chốc bị phá vỡ, bị “chia lìa đôi ngả”, “tan tác về đâu”.
Đoạn thơ rất thành công qua việc diễn tả nỗi đau trong tâm hồn của nhà thơ: nỗi đau vì quê hương bị tàn phá, cuộc sống bị huỷ diệt ở cả 2 phương diện vật chất và tinh thần, cả hiện tại lẫn truyền thống. Nỗi đau ấy của tác giả đã xoáy sâu thành một câu hỏi không lời đáp mà nó không chỉ được nhắc một lần ở đoạn này:
“Bây giờ tan tác về đâu”
Bên cạnh đó, tính chất bạo tàn của cuộc chiến tranh đã được tô đậm bởi Hoàng Cầm đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật tương phản giữa hiện tại đau thương và quá khứ thanh bình.Tình cảm của tgiả không được nói đến một cách trực tiếp,nhưng nó vẫn được hiện ra rất mãnh liệt qua các từ ngữ và hình ảnh. Đó là một tình yêu quê hương nông nàn,nỗi đau da diết và lòng căm giận sục sôi. Với người lính, những tình cảm này chính là sự bắt đầu cho hành động chiến đấu. Ngoài ra, đoạn thơ có cấu trúc rất nhịp nhàng, tự do, thoải mái nhưng không mất đi tính nhạc.
Đoạn thơ trên là những dòng tình cảm mãnh liệt, chân thành và trong sáng nhất mà Hoàng Cầm đã dành cho quê hương yêu dấu của ông. Bài thơ miêu tả những nét rất riêng của một miền quê hương Kinh Bắc nhưng nó có tác động tới tình yêu quê hương của mọi ngưới Việt Nam, đặc biệt trong cảnh ngộ chung lúc bấy giờ khi đất nước bị chiến tranh tàn phá. Với tứ thơ độc đáo, giàu sức khơi gợi, tiết tấu nhịp nhàng, lời thơ giản dị phảng phất chất dân ca, “Bên kia sông Đuống” đã đi vào tâm trí người đọc và có một vị trí xứng đáng , một sức sống lâu bền trong những sáng tác thơ thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954).